Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

LÃO TRẦN HAM VUI


Nhà thơ Bùi Hoàng Tám

Trần Ham Vui là “pháp danh” trong cõi người của Nhà thơ, Họa sĩ, Nhà báo Trần Nhương, “Tổng biên tập” Web văn chương nổi tiếng trannhuong.com. Trước khi viết về cái thói ham vui của Lão Trần, xin liệt kê đôi nét về “thân thế, sự nghiệp” của lão.
Trần Nhương tuổi Tân Tị, quê làng Thạch Sơn, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Vì vướng vào cái “chủ nghĩa thành phần” nên học hành giang dở, năm 15 tuổi, lão lọ mọ lên Hà Nội làm thuê và tự mày mò chữ nghĩa. Nhờ cái bản mặt thật thà lại có kiến thức, năm 1962, lão nông dân Thạch Sơn được đào tạo ngắn hạn giáo viên và về dạy tại Trường cấp 2 Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Năm 1965, như mọi thanh niên thời đó, lão gia nhập quân ngũ rồi ở tịt quân đội tới 28 năm có lẻ.
Trong quân đội, lão lọ mọ tự học viết báo, làm thơ, viết văn nên trở thành Nhà văn Quân đội. Để chính thức hóa con đường chữ nghĩa theo “đúng quy trình”, năm 1979, lão theo học Trường Viết văn Nguyễn Du Khóa I để từ một người viết không chuyên, lão trở thành nhà văn chuyên nghiệp và đã có lúc làm tới chức Trưởng phòng Văn nghệ (một chức quan văn rất khủng) của NXB Quân đội Nhân dân.
Hơn mười năm làm biên tập viên rồi Trưởng phòng Văn nghệ (1983 - 1993), lão đã từng “đỡ đẻ” cho hàng vạn tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nước.
Đang yên, đang lành, hưởng lương Trung tá, nếu không có gì thay đổi, tức là không vi phạm kỉ luật, khi ra quân chắc chắn lão sẽ vác trên mình cái quân hàm 4 sao hai vạch (Đại tá) như nhiều bạn bè lão.

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

NGÀY XUÂN NHÀN ĐÀM VỀ DANH VÀ LỢI


Nhà văn Vũ Bình Lục
T




DANH và LỢI, rõ là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau, có vẻ như nó hoàn toàn đối lập nhau, nhưng thực ra, nó lại xoắn xuýt với nhau, rất khó tách rời. Thế nên, xưa nay, người ta nhiều khi cũng dùng nó như một phạm trù kép: DANH LỢI.
Ở thời phong kiến, các nhà Nho thường cố công gắng gỏi học hành, rồi lều chõng rộn ràng đua tranh thi cử, cốt cũng chỉ mong đạt được cái danh, nhưng phải là chính danh. Quan niệm “tiến vi quan, đạt vi sư” (tiến thì làm quan, đạt thì làm thầy), trước là “vinh thân” (giành lấy vinh quang cho chính mình), rồi thì theo đó là “phì gia” (làm cho gia đình mình giàu sang phú quý), nghĩ cũng chẳng có gì sai. Cái DANH ông Nghè (Tiến sĩ), ông Cống (Cử nhân) được ghi vào bia đá bảng vàng, “vinh quy bái tổ”, mãi mãi đi vào sử sách, chẳng phải cũng là vinh hiển lắm hay sao ? Chẳng phải cũng là khát vọng của biết bao kẻ sĩ mọi thời đấy ư ? Nhà thơ Tú Xương (Trần Tế Xương) người đất Vị Xuyên (Nam Định) sống ở thời mạt vận của chữ Nho, từng nói rằng chính ông cũng đã cố gắng phấn đấu hết mình để đạt được cái danh, nghĩa là ông cũng rắp ranh “bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ” đấy thôi. Vậy mà không dưới tám lần lều chõng rủng rỉnh lặn lội đi thi, mà vị hàn Nho long đong vất vả đường công danh này cũng chỉ mới đỗ được cái Tú tài, đúng hơn là hai lần đỗ Tú tài (Tú kép), mà vẫn còn phải đứng cuối bảng ghi danh. Thật là cười ra nước mắt ! Có cụ cắm cúi đi thi cả đời, tới ba lần đỗ Tú tài, nhưng rốt cuộc cũng không làm sao chiếm được học vị Cử nhân, nên đành phải cầm lòng mà ôm cái danh be bé là cụ Tú Mền. Tú Mền, nghĩa là mấy lần Tú tài đắp lên nhau như đắp chăn đắp mền ấy. Không đỗ được Cử nhân thì chả ai cho làm quan chính ngạch, cuối cùng thì vẫn phải ngậm ngùi ngồi nhà làm thầy đồ gõ đầu trẻ, hoặc chỉ biết ngồi “ăn lương vợ” như thi sĩ trào phúng bậc nhất Tú Xương, lại phải nhẫn nhịn ngồi chờ đợi đến kỳ thi tiếp theo, sau ít nhất là ba năm nữa, thế thôi !